Theo Tổ chức kỷ lục Việt Nam, Maison Godard được xây dựng vào năm 1901 bởi Liên Hiệp Thương Mại Đông Dương và Châu Phi (LUCIA), trên nền đất cũ của xưởng đúc tiền Gia Long Thông Bảo tại thôn Tràng Tiền, Bắc Thành (Hà Nội). Khu vực này nằm trong chính sách quy hoạch thành phố Hà Nội, đặc biệt là khu vực quanh Hồ Gươm, uỷ thác bởi Công sứ Bonnal.
Theo Tổ chức kỷ lục Việt Nam, Maison Godard được xây dựng vào năm 1901 bởi Liên Hiệp Thương Mại Đông Dương và Châu Phi (LUCIA), trên nền đất cũ của xưởng đúc tiền Gia Long Thông Bảo tại thôn Tràng Tiền, Bắc Thành (Hà Nội). Khu vực này nằm trong chính sách quy hoạch thành phố Hà Nội, đặc biệt là khu vực quanh Hồ Gươm, uỷ thác bởi Công sứ Bonnal.
Làng Đúc nằm ở ven bờ nam sông Hương, đoạn từ cầu Giã Viên lên phía Long Thọ, cách thành phố Huế khoảng 3km về phía Tây nam, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nghề đúc đồng là một trong những nghề thủ công truyền thống lâu đời và nổi tiếng ở Việt Nam.
Làng đúc đồng ở Huế ra đời có nguồn gốc từ tổ chức của những thợ thuyền cùng nghề đúc thời Chúa Nguyễn, từ đầu thế kỷ 17. Theo gia phả của dòng họ Nguyễn – Kinh Nhơn, thủy tổ của nghề này là cụ Nguyễn Văn Lương, quê làng Đồng Xá, Siêu Loại (tỉnh Bắc Ninh ngày nay), khi xây dựng Huế thành Kinh đô, các chúa Nguyễn đã trưng tập thợ khéo cả nước về đây làm những công trình, vật dụng phục vụ nhu cầu của cung đình.
Làng đúc đồng ở Huế xưa kia là làng Dương Xuân, hầu hết dân làng làm nghề đúc đồng nên từ lâu quen gọi là Phường Đúc (hay Phường thợ đúc). Phường đúc gồm có 5 xóm là: Trường Đồng, Kinh Nhơn, Bổn Bộ, Giang Dinh, Giang Tiền nhưng chỉ có Kinh Nhơn và Bổn Bộ là hai làng nghề đúc đồng lớn nhất và có danh tiếng.
Làng nghề Đại Bái thuộc địa phận xã Đại Bái huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh. Làng nghề xuất hiện lâu đời, từ thời phong kiến phương Bắc đô hộ nước ta tuy nhiên, Đại Bái chỉ thực sự phát triển mạnh từ triều Lý với công đầu trong việc phát triển làng nghề này thuộc về Thái úy Nguyễn Công Truyền. Ông là người đã sáng tạo ra nghề gò đồng và truyền dạy lại cho con cháu. Sau khi ông mất, nhân dân nơi đây đã lập đền thờ và vinh danh ông là ông tổ nghề.
Ngày nay, qua hơn 1000 năm phát triển, đúc đồng Đại Bái nổi tiếng khắp cả nước và còn được nhiều du khách nước ngoài biết tới như là cái nôi của nghề đúc đồng Việt. Ở Đại Bái, chúng ta thấy có sự chuyên môn hóa sản xuất rất chặt chẽ. Các công đoạn riêng biệt đạt tới độ chuyên môn cao, mang bí quyết gia truyền riêng biệt.
Đến với Đại Bái, ta sẽ thấy hàng loại những sản phân vô cùng tinh xảo, độc đáo như đồ đồng thờ cúng, tranh đồng, trống đồng hay những bức tượng đồng và đồ đồng phong thủy….
Có thể một số trong chúng ta sẽ thắc mắc rằng: những sản phẩm này thì có thể tìm thấy ở bất kỳ làng nghề nào dù lớn hay nhỏ nhưng nếu bạn là người hiểu Đại Bái thì sẽ thấy ở nó toát lên một nét “ hồn Đại Bái” mà không một sản phẩm nào khác có thể làm được. Hơn thế nữa, sản phẩm đồng Đại Bái còn mang giá trị thẩm mĩ rất cao được người tiêu dùng trong và ngoài nước rất ưa chuộng.
Làng nghề đúc truyền thống Tống Xá – Vạn Điểm, xã Yên Xá , huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định là một trong những cái nôi lớn của nghề đúc đồng truyền thống lâu đời với thời gian phát triển gần 900 năm
Thuở xưa, làng Tống Xá chỉ đúc những mặt hàng đơn giản như đồ thờ cúng, đỉnh đồng, lư hương. Ngày nay, sản phẩm của làng nghề ngày càng đa dạng với những bức tượng Phật, danh nhân, lãnh tụ dân tộc.
Đặc biệt, phải kể đến những công trình lớn được ghi nhận đó là Tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ cao 16,2m, nặng 220 tấn trong dịp kỷ niệm 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử. Dịp kỷ niệm 990 năm Thăng Long- Hà Nội, người thợ đúc đồng Ý Yên lại được “chọn mặt gửi vàng” đúc tượng vua Lý Thái Tổ, cao 10,1m, nặng 45 tấn.
Ở công trình này, người thợ đúc đống Ý Yên đã sử dụng công nghệ đúc tượng liền khối cao gần 7m mà chỉ có 1 khuôn, 1 lần đúc- đây là bài toán hóc búa đối với nghề đúc trên Thế giới.
Đúc tượng 14 vị Vua thời Trần đặt tại quần thể di tích lịch sử văn hoá Thiên Trường, tượng Bác Hồ, tượng Phật tổ Như Lai bằng đồng đúc liền khối 35 tấn tại núi Non Nước (huyện Sóc Sơn, Hà Nội), tượng Tam thế Phật tổ Như Lai chùa Bái Đính (Ninh Bình) nặng 50 tấn… Ngoài các sản phẩm truyền thống như lư đồng, tượng đồng, các đồ kỷ niệm, đồ lễ, còn có các đồ lưu niệm vừa mang tính thẩm mỹ nghệ thuật lại lâu bền hiệu quả sử dụng cao. Đúc Đồng Huệ Chiến tự hào xuất thân từ cái nôi đúc truyền thống của Tống Xá và hiện có 2 cơ sở, 1 tại làng Tống Xá và 1 tại làng Vạn Điểm, thị trấn Lâm, Ý Yên, Nam Định.
Từng là làng nghề đúc đồng nổi tiếng bậc nhất kinh thành Thăng Long, làng đúc đồng Ngũ Xã nay chỉ còn lại đúng 2 gia đình theo nghề. Hầu hết người dân ở đây đều đã chuyển đi nơi khác sinh sống hoặc phải bỏ nghề để chuyển sang nghề khác. “Lĩnh hoa Yên Thái, đồ gốm Bát Tràng, thợ vàng Định Công, thợ đồng Ngũ Xã”
Làng nghề đúc đồng Ngũ Xã (quận Ba Đình, Hà Nội) từng nổi tiếng cả trong và ngoài nước về nghệ thuật đúc đồng. Nói đến Ngũ Xã, người xưa nghĩ ngay đến nghề đúc tiền, đúc chuông, và những sản phẩm thờ tự thiêng liêng như Quan Thánh đền Trấn Vũ, Adida chùa Thần Quang, thánh Mẫu…
Điểm nổi bật của làng nghề là những sản phẩm đồng đúc liền khối với đủ mọi kích cỡ từ nhỏ đến lớn và cực kỳ lớn. Sản phẩm nổi bật nhất của làng nghề có lẽ là pho tượng Phật A Di Đà đặt tại chùa Ngũ Xã. Đây là bức tượng bằng đồng có khối lượng lớn thứ 2 Việt Nam.
Các sản phẩm đồng của làng Ngũ Xã làm ra luôn tạo được sự khác biệt với các sản phẩm nơi khác. Đó là “màu mắt cua” của đồng mà không phải làng đúc đồng nào cũng làm được. Đây là kết quả của việc kết hợp đồng, nhôm, chì theo một tỉ lệ chuẩn mực và bí truyền. Chính vì thế sản phẩm đồng Ngũ Xã không bị rỗ, bị phai, để hàng trăm năm vẫn bền vững như vậy.
Từ xưa làng nghề Ngũ Xã đã rất nổi tiếng cả trong và ngoài thành Thăng Long nhờ kỹ thuật đúc tượng đồng, trống đồng, đồ thờ bằng đồng, chuông đồng, tranh đồng với những nét tinh hoa bậc nhất. Huệ Chiến cũng đã từng tham quan và học hỏi kinh nghiệm của những người thợ tại làng Ngũ Xã.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử những sản phẩm đúc đồng của làng Ngũ Xã trước đây và cả hôm nay vẫn khẳng định được sự tinh xảo, tính nghệ thuật và thể hiện được tâm hồn của những nghệ nhân của kinh thành Thăng Long xưa và nay. Nhiều tác phẩm đã được coi là kiệt tác của nghệ thuật đúc đồng Việt Nam.
Thôn Bằng Châu (thị trấn Đập Đá, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định) từ lâu đã nổi tiếng với nghề đúc đồng truyền thống. Qua bàn tay tài hoa của các nghệ nhân nghề đúc nơi đây, nhiều sản phẩm có giá trị đã được làm ra.
Ông tổ của nghề đúc đồng ở Bằng Châu là thiền sư Dương Không Lộ (1016 – 1094), tên thật là Dương Minh Nghiêm, quê ở làng Hải Thanh, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định. Thiền sư là người rất giỏi văn chương và y học. Thời đó, thái tử nhà Đường (Trung Quốc) bị bệnh nặng, không ai chữa khỏi nên vua Đường phải cho mời ông sang.
Do chữa khỏi bệnh cho thái tử nên ông được vua Đường ban thưởng tùy ý nhưng chỉ nhận đồng đen mang về. Về nước, ông mở nghề đúc đồng rồi sau đó đi khắp nơi để truyền nghề, trong đó có làng Bằng Châu. Vì vậy, dân làng đã tôn ông làm tổ nghề.
Làng nghề đúc đồng Mỹ Đồng, Thủy Nguyên, Hải Phòng đã có hàng trăm năm truyền đời. Xưa kia sản phẩm chủ yếu của làng nghề là lưỡi cày và một số sản phẩm dân dụng khác, được tạo ra từ việc thổi lò bằng ống hơi và đẩy bằng tay trong các hộ gia đình.
Năm 1938 có một con tàu ngoại quốc vào “ăn hàng” tại cảng Hải Phòng và bị hỏng bộ phận giữ thăng bằng đuôi, gọi là “con rùa đối trọng”, nặng khoảng 1 tấn. Nhận được thông tin này, bằng lòng say mê lao động và kinh nghiệm bao năm trong nghề, chủ lò của làng đã xin mẫu về đúc thử. Các bễ nấu trong làng được tập trung thành 8 lò nổi lửa liên tục.
Dưới bàn tay những người thợ lành nghề cùng với sự đồng tâm, hiệp lực của những người thợ, “con rùa đối trọng” hiện hữu trước sự ngỡ ngàng của cả chủ lẫn khách. Nghề đúc Mỹ Đồng từ đó mà vang xa.